Chủ nhật, 17/11/2024, 17:58[GMT+7]

Tư tưởng, tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với thương binh, liệt sĩ

Thứ 2, 29/06/2015 | 20:56:16
1,921 lượt xem
(Chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phục vụ sinh hoạt chi bộ tháng 7/2015)

Bác Hồ với trại điều dưỡng thương binh nặng. Ảnh tư liệu

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm và dành tình cảm đặc biệt đối với thương binh, liệt sĩ và Người chính là hiện thân, là tấm gương sáng của tư tưởng nhân văn đó.

Năm 1946, khi vừa giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời và đang trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”, trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ, Người viết: Tôi xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Ghi nhận và đánh giá cao sự hy sinh và cống hiến của các thương binh, liệt sĩ, bằng tình cảm nặng tình ân nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như một trận lụt to. Nó đe doạ tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố, mẹ, vợ, con của nhân dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta đã dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh để giữ tính mệnh đồng bào. Họ quyết hy sinh gia đình và tài sản họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của chúng ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ”… Người cũng khẳng định: “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ”…

Nặng lòng với thương binh và gia đình liệt sĩ, trước lúc đi xa, trong bản Di chúc, Người căn dặn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân những vấn đề liên quan đến việc quan tâm, chăm sóc những thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và chính sách đối với những người có công với cách mạng: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”…

Để đồng bào cả nước tỏ lòng biết ơn và tri ân đến các thương binh, liệt sĩ, tháng 6 năm 1947, Người đề nghị Chính phủ chọn một ngày trong năm là Ngày Thương binh, Liệt sĩ. Thực hiện lời huấn thị của Người, tại Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành, khối ở Trung ương và các tỉnh họp ở Phú Minh (Đại Từ - Thái Nguyên) đã chính thức chọn ngày 27/7 là “Ngày Thương binh” trong cả nước. Đến năm 1955, “Ngày Thương binh” được đổi thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” để toàn dân thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.

Hằng năm, cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sĩ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”.

Tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với thương binh, liệt sĩ không chỉ thể hiện qua lời nói mà còn bằng những việc làm cụ thể. Vào những dịp này, Người đã gửi thư kèm những món quà (do đồng bào, đồng chí gửi biếu Người) đến anh chị em thương binh, các gia đình liệt sĩ; đồng thời nhắc nhở trách nhiệm, động viên và biểu dương những địa phương, cơ quan, đơn vị và các cá nhân đã hết lòng giúp đỡ thương binh và gia đình liệt sĩ. Chiều ngày 11/7/1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, trong một buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ”, Bác đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng binh sĩ. Nhân cuộc mít tinh quan trọng ngày 27-7-1947, Người đã viết thư và xung phong gửi tặng 1 chiếc áo lụa, 1 tháng lương, 1 bữa ăn của Người và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127 đồng) ủng hộ. Sau này, Người còn nhiều lần gửi tiền tiết kiệm, tiền nhuận bút của mình ủng hộ thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với đất nước.

Trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, liệt sĩ là những người cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Người hết lòng lo lắng, tích cực kêu gọi và nêu ra nhiều sáng kiến phát động các phong trào giúp đỡ anh chị em thương binh, bệnh binh và các gia đình liệt sĩ bằng mọi cách có thể.

Tháng 2/1948, Người gửi thư cho các cháu nhi đồng phát động phong trào công tác Trần Quốc Toản nhằm giúp đỡ các gia đình bộ đội, gia đình thương binh, liệt sĩ... Tháng 7/1951, Người phát động phong trào “đón thương binh về làng” với những nội dung cụ thể, rõ ràng, thiết thực: “Chính quyền, đồng bào và các đoàn thể nhân dân trong mỗi xã phải tùy theo sự cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà đón một số anh em thương binh. Giúp lâu dài chứ không phải chỉ giúp một thời gian. Không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh, nhưng giúp bằng cách này:

1. Mỗi xã trích một phần ruộng công, nếu không có ruộng công thì mượn ruộng của những đồng bào có hằng tâm, hằng sản, nếu không mượn được ruộng thì chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã chung sức phát vỡ một số đất mới để giúp thương binh.

2. Chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã tổ chức việc cày cấy, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy. Hoa lợi để nuôi thương binh.

3. Tùy theo số ruộng đất trích được, mượn hoặc khai khẩn được, mà đón nhiều người hoặc ít người thương binh về xã... Kế hoạch tỉ mỉ sẽ do Chính phủ cùng Mặt trận Liên Việt định sau. Với lòng hăng hái và cố gắng của đồng bào, với sự nỗ lực của cán bộ chính quyền và đoàn thể các địa phương, tôi tin chắc rằng công việc đón anh em thương binh về làng sẽ có kết quả tốt đẹp...

Phát huy truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc, gần 70 năm qua, Đảng bộ và nhân dân Thái Bình đã thực hiện tốt chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, hưởng ứng phong trào “Mùa đông binh sĩ”; “Giúp binh sĩ bị thương”, nhân dân Thái Bình đã tích cực quyên góp tiền mua thuốc, vật dụng… tặng bộ đội và chiến sĩ bị thương. Các cấp, các ngành trong tỉnh đã thực hiện tốt các chế độ “hưu bổng thương tật” đối với thương binh và “chế độ tiền tuất” đối với gia đình liệt sĩ, ưu tiên chia công điền, công thổ cho thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Nhiều cuộc vận động để chăm sóc thương binh, thân nhân liệt sĩ do Trung ương phát động như thành lập “Hội mẹ chiến sĩ”, “Đón thương binh, bệnh binh nặng về làng” đã được nhân dân trong tỉnh hưởng ứng và thực hiện có kết quả. Đặc biệt, từ năm 1995 đến nay, công tác thương binh, liệt sĩ và người có công của tỉnh đã có bước phát triển mới và đạt được kết quả đáng ghi nhận. Đến năm 2014, toàn tỉnh có 193 công trình ghi công ơn liệt sĩ (trong đó có 89 nghĩa trang liệt sĩ). Phong trào xây dựng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” được toàn dân tham gia hưởng ứng rất tích cực; phong trào phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa và các hoạt động giúp đỡ thương, bệnh binh, bố mẹ liệt sĩ già yếu, cô đơn thường xuyên được các cấp, các ngành quan tâm.

Kỷ niệm 68 năm Ngày Thương binh, liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2015) là dịp để mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tri ân các anh hùng, liệt sĩ; tiếp tục đề cao trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nữa công tác chăm sóc, giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công để truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam ngày càng tỏa sáng trong thời kỳ mới.

Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

  • Từ khóa