Thứ 7, 23/11/2024, 10:15[GMT+7]

Cải tạo, nâng cấp hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản Yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất

Thứ 2, 11/08/2014 | 09:00:02
1,022 lượt xem
Trong những năm qua, các vùng nuôi trồng thủy sản (NTTS) đã phát huy hiệu quả kinh tế khá rõ nét, đóng góp tích cực vào tốc độ tăng trưởng của ngành Nông nghiệp. Hạ tầng là một trong những điều kiện quyết định đến năng suất, chất lượng của NTTS; giúp người nuôi yên tâm đầu tư vào sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ.

Vùng ươm ngao giống ở Tiền Hải

Hiện nay, toàn tỉnh có 45 vùng NTTS ở 8 huyện, thành phố; trong đó 24 vùng được Nhà nước đầu tư hệ thống điện, đường giao thông, kênh thoát, kênh cấp, cống cấp, trạm bơm cấp nước; 3 vùng nuôi chưa được cấp vốn đầu tư gồm Vũ Ðoài (Vũ Thư), Minh Tân (Hưng Hà), Quỳnh Hội (Quỳnh Phụ); 2 vùng nuôi đang được triển khai thực hiện, chưa hoàn thành gồm Ðông Phương (Ðông Hưng) và Thái Nguyên (Thái Thụy). Các vùng còn lại do các huyện, xã thực hiện chủ trương chuyển đổi theo quy định và hỗ trợ đầu tư một phần để khuyến khích người NTTS đầu tư thêm.

Thực trạng trước đây, kết cấu hạ tầng vùng NTTS chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Khu vực ngoài đê quốc gia được xây dựng từ những năm 1989 nên đê bao ngoài, cống cấp, tiêu nước đã xuống cấp, chưa có quy hoạch vùng và đối tượng nuôi thả. Do đó, quy mô các đầm NTTS không đồng đều, trung bình mỗi đầm chỉ từ 5 - 8 ha, đầm lớn nhất là 71 ha ở xã Nam Phú (Tiền Hải), một số đầm diện tích dưới 1 ha. Giá trị sản xuất hàng năm phụ thuộc nhiều vào yếu tố thiên nhiên nên kết quả chưa tương xứng với tiềm năng diện tích.

Vùng nuôi tôm xã Nam Cường (Tiền Hải).

Những năm gần đây, UBND tỉnh đã tích cực chỉ đạo và triển khai nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ tạo điều kiện cho các địa phương, hộ dân  nâng cấp hạ tầng để phát triển các vùng NTTS. Các vùng thủy sản tập trung đều đã có quy hoạch chi tiết song một số hạng mục công trình chưa phù hợp với yêu cầu thực tế, hệ thống điện, cống tưới, tiêu cho vùng nuôi chưa đồng bộ, đa số các vùng nuôi không có hệ thống cống tưới, tiêu riêng, hầu hết được tận dụng từ công trình phục vụ sản xuất lúa hoặc làm muối. Hệ thống cống đầu mối cho các vùng nuôi thiếu hoặc xuống cấp, nguồn nước cấp vào ao nuôi có thời gian bị ảnh hưởng của dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, nước thải công nghiệp từ nội đồng chảy ra khu vực ven biển nên không bảo đảm cấp nước theo yêu cầu.

Bên cạnh đó, người dân ít quan tâm đến khâu cải tạo, nạo vét bùn đáy ao hoặc cải tạo chưa đạt yêu cầu nên dễ phát sinh khí độc NH3, H2S… ôxy hòa tan thấp, môi trường nuôi thường xuyên biến động đã gây sốc và làm phát sinh dịch bệnh. Quy mô ao trong vùng thủy sản nước lợ có diện tích nhỏ, đa số dưới 1.000 m2/ao, độ sâu đạt thấp; 95% các vùng nuôi nước lợ, ngọt tập trung không có ao chứa lắng, xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi và xả ra ngoài môi trường. Hệ thống điện phục vụ NTTS theo hướng thâm canh và bán thâm canh còn thiếu như vùng chuyển đổi ở các xã Thái Ðô, Thái Thượng, Thái Hồng (Thái Thụy), Ðông Hải (Tiền Hải), An Thanh (Quỳnh Phụ) và Ðông Cường (Ðông Hưng) nên chưa phát huy hết hiệu quả sản xuất của vùng chuyển đổi.

Ðể khắc phục những tồn tại trên cùng những khó khăn trong khai thác và NTTS, qua đó nâng cao hiệu quả sản suất của các vùng NTTS, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng Ðề án “Phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá phục vụ khai thác và nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2015 - 2020”. Theo đó, trong thời gian tới sẽ đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nuôi tập trung. Ðầu tư và hoàn thiện các công trình đầu mối, hệ thống thủy lợi, hệ thống điện, giao thông phục vụ cho các vùng nuôi chuyển đổi tập trung, bảo đảm đáp ứng được yêu cầu sản xuất, đủ điều kiện để áp dụng những công nghệ NTTS thâm canh và bán thâm canh vào sản xuất. Ưu tiên đầu tư thực hiện 4 dự án tại các xã Vũ Ðoài (Vũ Thư), Minh Tân (Hưng Hà), Quỳnh Hội (Quỳnh Phụ), Ðông Phương (Ðông Hưng); tăng cường xây dựng và chuyển giao các mô hình nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng theo chương trình VietGap. Ðến năm 2020 sẽ nâng cấp, hoàn thiện kết cấu hạ tầng của 45 vùng NTTS hiện có. Với các giải pháp trên hy vọng các vùng NTTS sẽ phát huy được hiệu quả sản xuất, góp phần phát triển NTTS bền vững.

Văn Quyết

  • Từ khóa