Lãng đãng hương Mần
Khảo tả các di tích và khảo cứu thần tích, thần sắc cùng các phế tích khảo cổ học trên địa bàn các xã khu vực cửa Tuần Vường cho thấy vùng đất ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý thời kỳ đầu Công nguyên dân cư khắp nơi tụ hội về đây khá đông đúc. Thế kỷ VI, vùng đất ngã ba sông này là tiền đồn của cuộc khởi nghĩa của Lý Bí (Lý Bôn) dựng lên nhà nước Vạn Xuân. Hương Màn Để cũng là quê hương của Hoàng hậu nhà tiền Lý là Đỗ Thị Khương. Cao Biền, một nhà địa lý phong thuỷ của nhà Đường (thế kỷ IX) sang nước ta khảo sát các huyệt vị, mạch đất nhằm “trấn yểm” triệt phá không để mạch đất phát vương, chỉ để mạch đất phát “công khanh”, khi về bắc quốc đã viết lại thành sách “Địa lý Cao Biền” có đoạn ghi chép về thế đất của hương Màn Để như sau: “Ngũ mã đồng quần/Thất tinh ủng hậu/Chiểu lăng - Ba đậu/Địa phát khôi khoa”. Dịch nghĩa: “Năm con ngựa cùng bầy/Có chòm sao Bắc Đẩu nâng đỡ phía sau/Chiểu Lãng - Ba Đậu là vùng đất phát khôi khoa”.
Những tên đất bình dị như Lạng (Lãng Xuyên) thuộc xã Song Lãng, huyện Vũ Thư phía Nam của đầu nguồn sông Trà Lý, là Tĩnh Xuyên (nay thuộc xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà) phía Bắc sông Trà Lý vẫn còn dấu tích của những gò đống có tên gọi nôm là Ngũ Mã, Thất Tinh, Đống Công, Đống Quỳnh, Bạch Mã, Đống Thư, Đống Nứa, Đống Sở, Càn Ngô, Nội Quýt, Con Phách, vườn Sấm, Gai Thấp, Gai Cao... Theo tiên đoán của Cao Biền (nhà Đường) quả nhiên đất hương Màn Để “địa phát khôi khoa”. Từ thời nhà Đường thế kỷ IX cho đến thế kỷ XV, đất hương Màn Để mới thực sự “phát lộ” nhân tài. Dòng chảy khoa bảng của vùng đất này như được khơi nguồn mà “tuyệt đỉnh” là sự kiện “Lưỡng nhân huynh đệ đại đăng khoa” kể về cặp đôi anh em nhà họ Đỗ là Đỗ Lý Khiêm và Đỗ Oanh. Đỗ Lý Khiêm đỗ trạng nguyên khoa Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 đời Lê Hiến Tông (1499) từng làm quan đến chức Đô ngự sử. Đỗ Oanh đỗ Hội nguyên tiến sĩ khoa Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 đời Lê Uy Mục (1508). Nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Nguyễn Thanh, nguyên Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch cho biết, từ Lãng nghĩa Hán là “sóng” (thường lặp đi lặp lại trong các địa danh như Lãng Xuyên, Lãng Khê, Lãng Trạch, Bạch Lãng, Chiểu Lãng, Thanh Lãng, Nguyệt Lãng, Nội Lãng, Ngoại Lãng, Minh Lãng, Giai Lãng, Văn Lãng... đều là sóng) lý giải tại sao vùng đất này lại gắn liền với sóng, vậy sóng ở đâu ra. Từ xưa, trong dân gian vẫn lưu truyền câu ca: “Trăm cửa bể phải nể cửa Vường (Tuần Vường) nơi sông Hồng đổ vào dòng Trà Lý, cửa Vường phải nhường cửa Luộc”. Sông Trà Lý có tên cổ là Bạch Lãng (sóng trắng), Lãng Khê (sóng nguồn), Lãng Xuyên (sóng sông)... qua những thay đổi tên gọi theo thời gian cho thấy vùng đất ngã ba sông tưởng chừng bằng phẳng, bình yên hóa ra lại là nơi đầu sóng, ngọn gió một thời.
Cũng theo các tài liệu khảo cứu, vùng Giai Lạng (Lãng) được xác định có ngã ba Vường là huyệt đạo phong thủy quan trọng của cả vùng đất sơn nam, được các triều đại phong kiến phương Bắc và nước ta đặc biệt quan tâm. Khảo cứu địa hình có thể bắt gặp nhiều mộ Hán cổ (có thuyết cho rằng vì biết đây là vùng địa phát khôi khoa nên ngay cả người Hán từ phương Bắc cũng mang di hài tổ tiên họ sang táng ở đất này). Liên quan tới vùng đất ngã ba Tuần Vường hay cửa Phạm Lỗ, A Lỗ xin được trích dẫn sự tích hai ngôi làng cổ là làng Cổ Trai, xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà và làng Ngoại Lãng, xã Song Lãng, huyện Vũ Thư.
Thần tích, thần sắc làng Cổ Trai có ghi chép truyền thuyết về làng Cổ Trai xưa có tên Kẻ Giai, có truyền thuyết nói rằng khi Lý Bí dựng cờ khởi nghĩa ở đây, nhiều nghĩa sĩ từ mọi miền kéo về, làng khi đó chỉ toàn thanh niên trai tráng (trai gọi chệch thành con giai) nên có tên làng Giai. Nhờ sát sông Trà Lý và Hoàng Giang (sông Hồng) tiện đường đi lại, người buôn kẻ bán ra, vào tấp nập nên có tên Kẻ Giai (kẻ chợ), Cổ Trai là đọc chệch của Kẻ Giai. Làng Giai, làng có nhiều gò đống với những tên gọi khác nhau mà ngày nay người dân vẫn chưa rõ sự tích như: Vườn nghè, dao cầu, cây đa, gốc sập, mả thú, mả cẩu, mả cô Sài, vườn khoang, con xà, cái gậy, miếng ấn, mả hòn, con mèo, con cóc, mả hới, nội trong, nội ngoài, cái nghiên, cái bút, con voi, cái chiêng, cái trống, mả dầu... Trong những gò đống trên, người làng Cổ Trai kể về con Xà và cái Gậy rằng mỗi khi con Xà trở mình, nửa phía dưới làng đều bị cháy, dân làng liền bàn nhau đắp các gậy và trồng cây bàng lên đầu con xà để trị con xà.
Theo truyền thuyết dân gian và những dấu tích lịch sử còn lại thì vùng đất phía Bắc huyện Thư Trì nói chung và làng An Để, xã Hiệp Hòa, huyện Vũ Thư nói riêng hình thành từ rất sớm, cách ngày nay hơn 2.000 năm. Dấu tích về vùng đất cổ còn thấy ở những ngôi mộ Hán nằm rải rác ở các xã Xuân Hòa, Hiệp Hòa, Đồng Thanh, Việt Hùng... và những vị thần thời Hùng Vương, thời Hai Bà Trưng chống Hán thờ ở các đền miếu trong vùng và trữ lượng than đá nằm trong lòng đất của huyện Vũ Thư. Giữa thế kỷ thứ VI khi Lý Bí qua vùng đất này cảm xúc trước cảnh đẹp của hương Màn Để, của thiên nhiên và tình người nơi đây ông đã quyết định đóng đồn binh, dựng đồn luỹ, tụ nghĩa sĩ dấy binh về giải phóng Long Biên. Làng An Để nay còn dấu tích một chiến lũy của Lý Bí, dân quen gọi Lũy Hồ, dài hơn 1km chạy từ chùa Âu Lâu (Phúc Minh Tự) sang tới miếu Hai Thôn. Vào những năm 50 của thế kỷ XX lũy vẫn cao gần 1m, mặt lũy rộng 3 - 4m, ngoài lũy là hào sâu (hào nay đã bị lấp). Dân hương Màn Để lập đền thờ vua Tiền Lý. Riêng làng An Để cùng thờ Lý Bí, Đỗ Thị Khương và tướng Triệu Quang Phục làm thành hoàng.
Kết quả điền dã và khảo cứu tài liệu cho biết, vùng đất Chiểu Lãng (nay thuộc các xã Song Lãng, Minh Lãng, Hiệp Hòa, Xuân Hòa, Đồng Thanh, Hồng Lý... của huyện Vũ Thư chính là trung tâm hành chính cổ xưa của vùng đất Lạng, hương Màn Để. Danh y Tuệ Tĩnh (thời nhà Trần) đã dùng cây Màn Để ở vùng đất ngã ba sông này làm vị thuốc. Theo cổ phương, Màn Để thuộc họ Thầu Dầu. Người Mường (Việt Mường) gọi là cây Mần, cây Để, cây Đốt, cây Phốt. Người Hán sang đô hộ nước ta gọi là cây “Lão dương tử”, Ba nhân, Ba đậu... do đó dân gian quen gọi Chiểu Lãng - Ba Đậu là thế... |
Quang Viện
Tin cùng chuyên mục
- Nhận diện cuộc đời Huyền Trân Công chúa để phát huy giá trị di tích lịch sử 30.11.2024 | 20:31 PM
- Kỷ niệm 195 năm thành lập huyện Tiền Hải (1828 - 2023)Tiếng thơm muôn thuở 06.10.2023 | 08:49 AM
- Kỷ niệm 195 năm thành lập huyện Tiền Hải (1828 - 2023)Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ với cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải 06.10.2023 | 08:50 AM
- Bến phà Tân Đệ: Nơi Đảng kỳ hiên ngang tung bay 02.09.2023 | 07:40 AM
- Côn Đảo - Trường học cách mạng của cả nướcKỳ 1: Chốn "địa ngục" trần gian 17.07.2023 | 14:40 PM
- Phù sa châu thổ 12.12.2022 | 09:04 AM
- Ký ức nụ cười Thành cổ Quảng Trị 15.09.2022 | 22:10 PM
- Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô (28/08/1972- 28/08/2022)Tàu Ô - Xóm Ruộng - “bức tường thép” trên đường 13 22.08.2022 | 15:19 PM
- Kỷ niệm 132 năm ngày thành lập tỉnh Thái Bình (21/3/1890 - 21/3/2022)Các hình thức đấu tranh chống Pháp trước và sau khi thành lập tỉnh Thái Bình 16.03.2022 | 15:21 PM
- Kỷ niệm 132 năm ngày thành lập tỉnh Thái Bình (21/3/1890 - 21/3/2022)Tiền Châu trỗi dậy 15.03.2022 | 09:32 AM
Xem tin theo ngày
- Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
- Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy
- Đồng chí Nguyễn Khắc Định, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội: Tiếp xúc cử tri tại huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà
- Đồng chí Nguyễn Khắc Thận, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy, nhiệm kỳ 2020 - 2025
- Cử tri quan tâm đến việc xây dựng nhà máy xử lý rác thải công nghệ cao
- Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XV: Xem xét, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế, chính sách, khơi thông nguồn lực phát triển
- Trên 1,3 triệu đại biểu tham dự hội nghị triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
- Bế mạc kỳ họp thứ tám Quốc hội khoá XV
- Trao giải thưởng Lương Định Của lần thứ XIX năm 2024 cho 36 thanh niên xuất sắc tiêu biểu
- Thông báo dự thảo báo cáo kết quả kiểm tra công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Kết luận số 21-KL/TW