Chủ nhật, 10/11/2024, 05:43[GMT+7]

Huyết mạch giang sơn

Thứ 7, 20/05/2023 | 14:11:43
2,874 lượt xem
Nhắc đến Kỳ Bố Hải Khẩu, nay là xã Tân Bình, phường Tiền Phong, Hoàng Diệu, Kỳ Bá, Trần Lãm (thành phố Thái Bình), ngoài các công trình nghiên cứu của học giả trong nước, học giả nước ngoài cũng quan tâm và bỏ nhiều công sức đến tận vùng đất bên bờ Biển Đông điền dã với hy vọng làm sáng tỏ ý chí tự lực, tự cường trong việc mở dựng giang sơn, chống giặc dã, hòa đồng thiên nhiên, cải tạo đất đai, mở đất, dựng làng quật cường của người dân Thái Bình.

Từ đường Bùi Quang Dũng tại ấp Hàm Châu, nay thuộc xã Tân Bình, thành phố Thái Bình.

Trong số các học giả nước ngoài, học giả người Mỹ Keith Weller Taylor đã viết trong cuốn “Việt Nam thế kỷ thứ X” với nhận xét đầy tâm huyết: “… đây là trung tâm kinh tế - chính trị -  văn hóa quan trọng thông thương giữa Hoa Lư và Kỳ Bố Hải Khẩu”. Nhận xét của một sử gia nước ngoài nhìn nhận về vị thế đặc biệt của Kỳ Bố Hải Khẩu nằm trong vùng đất Châu Đằng (vùng đất gồm Thái Bình, một phần Hưng Yên và Hải Dương nay) càng tôn thêm giá trị quan trọng đối với sự ra đời của nước Đại Cồ Việt.

Dân gian có câu “Tướng tài phải tìm đất dụng võ”, Kỳ Bố Hải Khẩu nhanh chóng trở thành tâm điểm chú ý của các thế lực cát cứ. Cư dân từ vùng núi phía Bắc cùng luồng dân di cư ở rừng núi phía Nam hiểm trở tụ hội về đây tìm đất mưu sinh đã tạo nên một quần cư cạnh tranh sinh tồn dữ dội. Đồng thời, đất đai được các sông lớn bồi đắp phù sa đã tạo nên một vùng canh tác màu mỡ, sản vật dồi dào khiến nhiều bậc hào kiệt cũng muốn xưng hùng, độc chiếm nơi đây nhưng duy nhất chỉ có tướng công Trần Lãm vùng vẫy xưng hùng một phương. Theo các tài liệu khảo cứu, tướng công Trần Lãm và Đinh Bộ Lĩnh đều có “con mắt xanh” với Kỳ Bố, chọn vùng đất này cát cứ dẹp tan “thập nhị sứ quân”.

Không phải ngẫu nhiên mà mùa xuân năm 1036, Lý Thánh Tông chọn Kỳ Bố Hải Khẩu làm lễ tịch điền và năm 1065, một lần nữa vua Lý Cao Tông lại về Kỳ Bố cày ruộng, đủ cho thấy vùng đất này rất phồn thịnh, trù phú đáng để bậc vương triều khuyến khích nông tang. Châu Đằng, tên gọi và cũng nguyên là vùng đất Thái Bình cổ xưa, vùng trời phóng khoáng, nơi đây tạo cho Đinh Bộ Lĩnh cơ hội thành đế vương. 

Với lịch sử, tướng công Trần Lãm (Trần Minh Công), Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng) là những người tiên phong khai khẩn vùng đất trọng yếu cho công cuộc dẹp yên các thế lực nổi dậy, cát cứ mười phương, thống nhất giang sơn. Với dân chúng, họ là những bậc hiệt kiệt, hào phóng, thương dân là thủ lĩnh “nhất hô, bá ứng”. Với lịch sử, ghi nhận và không quên Trấn Đông tiết độ sứ Bùi Quang Dũng, một đại quan triều đình, là người kế thừa và phát huy tiềm năng, thế mạnh của con người và vùng đất trù mật này trong việc giữ gìn, xây dựng và phát triển sự nghiệp dựng nước, giữ nước mà bao đời ông cha ta đổ xương máu gây dựng. 

Các tài liệu khảo cứu và sử cũ cho thấy, năm 971, tại Kỳ Bố, Ngô Văn Kháng, một binh tướng cũ dưới triều Ngô Vương nổi lên chống lại triều đình nhà Đinh. Cũng dựa vào Trần Minh Công mà binh thế của Ngô Văn Kháng rất mạnh, nhiều lần quan quân triều Đinh đến nghênh chiến đều bị thất bại thảm hại. 

Lúc đó, trong triều xuất hiện một tướng quân tài giỏi có tên Bùi Quang Dũng, đã được phong Anh Dực tướng quân, ngay lập tức được Đinh Tiên Hoàng xung chức Điện Tiền đô chỉ huy sứ, tin cẩn giao cho cầm quân dẹp loạn. Bùi Quang Dũng vốn quê Phong Châu giỏi binh lược, là người nhân đức nặng lòng thương dân. Đem quân đến vùng Kỳ Bố, Điện Tiền đô chỉ huy sứ không vội giao chiến mà cho quân sĩ nghỉ ngơi ở Lương Lai (nay là xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình) sau khi bí mật dò la tin tức mới hay Ngô Văn Kháng nặng lòng chúa cũ và bất bình với triều Đinh nên nổi loạn. Ông đã bình tĩnh cho người tới thuyết phục Ngô Văn, một mặt đứng ra tổ chức lễ yết bái tướng quân Trần Lãm ở đền thờ ông tại Kỳ Bố. 

Thấy nghĩa tình lớn lao, sâu nặng của Điện Tiền đô chỉ huy sứ với tướng công, Ngô Văn Kháng cảm phục xin hàng. Dẹp yên Kháng, Bùi Quang Dũng được vua Đinh hết lời khen ngợi và phong chức “Trấn Đông tiết độ sứ” trị sở đóng tại Kỳ Bố kiêm thống lý ba đạo. Các cánh đồng (tên gọi cổ là Hương Bài, Lương Lai, Nhân Khê của trang Trí Lai, trại Linh Sa thuộc hai xã Tiền Phong và Phú Xuân được khai khẩn và nhập làm một có tên gọi là ấp Hàm Châu. Vùng đất trù mật này nhà Đinh phong cho Trấn Đông tiết độ sứ Bùi Quang Dũng hưởng lộc. 

Theo tài liệu nghiên cứu của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian quá cố Nguyễn Tiến Đoàn, bấy giờ ở ấp Hàm Châu có câu đồng dao: “Uy mặc, uy chẳng sợ chi/ Có ông Dũng đến vậy thì mới kinh”. Nguyên cớ là Kỳ Bố vốn là vùng cửa biển, cửa sông, lau lác rậm rạp, thường có cá kình bơi lội, nhân dân gọi là cá thần, lại thêm nhiều loại giao long (rắn, rết) cắn phá làm con người bị thương nên người dân không dám bén mảng đến. Một hôm, Bùi Quang Dũng đi thuyền trên đoạn sông vùng Kỳ Bố, ông sơ ý đánh rơi viên ngọc quý, cá thần nuốt mất, bơi đi. Lúc này, ông đang cho cư dân khai khẩn đất hoang, vua Đinh thấy vậy liền đặt tên là Hàm Châu và ban thái ấp cho Bùi Quang Dũng. Lạ thay, các loại giao long, cá thần cũng tự dưng biến đi, trả lại vẻ thanh bình cho Kỳ Bố.

Ngược dòng lịch sử, thời bấy giờ trong nước rối loạn, Bộ Lĩnh cùng với con là Đinh Liễn rời bỏ Hoa Lư, tìm đường sang vùng Kỳ Bố Hải Khẩu đi theo sứ quân Trần Lãm. Trần Lãm thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô khác thường và có độ lượng nên giao cho binh quyền. Nương nhờ thế lực của Trần Lãm, Đinh Bộ Lĩnh đã biết dụng binh, liền trở về vùng rừng núi Hoa Lư củng cố sức mạnh, gây thanh thế và dần dẹp yên, thu phục các thế lực địa phương, bình ổn cuộc nội chiến tương tàn. 

Tương truyền, năm Tân Hợi (951) đời hậu Ngô Vương, Nam Tấn Vương, cùng Thiên Sách Vương đem quân đến Kỳ Bố đánh nhưng cả hai đều đại bại trước sức mạnh của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh, phải rút quân về. Ðến khi nhà Ngô mất, Ðinh Bộ Lĩnh dụ hàng được các sứ quân Ngô Xương Xí, phá được Ðỗ Ðộng của Nguyễn Cảnh Thạc. Từ đó, Ðinh Bộ Lĩnh đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn Thắng vương, chỉ trong một năm, Ðinh Bộ Lĩnh đã bình được các sứ quân, lập thành nghiệp đế. Năm Mậu Thìn (968), Vạn Thắng Vương lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng Ðế đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. 

Các sử gia cho rằng, “cơ duyên” của Đinh Bộ Lĩnh tới vùng đất Hải Khẩu rồi làm con nuôi tướng công Trần Lãm và “thủ lĩnh cờ lau” đã có một thời đằm mình trong vận khí đất trời vùng Kỳ Bố, được Trần Lãm truyền dạy cho những chiêu dụ binh, vạch kế sách bình trị thiên hạ ngay trên mảnh đất “cuối bãi ven bờ” dâu xanh, mật ngọt này.

Dưới triều Ngô Vương (938 - 944) xuất hiện vùng đất lau lách rậm rạp, sông ngòi chằng chịt như mạng nhện lại có thêm cửa biển trọng yếu mà bậc vương triều ngỡ ngàng gọi là Kỳ Bố Hải Khẩu (thành phố Thái Bình nay) để rồi trong cái mênh mang trời đất như chạm vào nhau hoang dại khiến Trần Lãm, một tướng quân tài giỏi của triều đình lúc đó sớm nhận ra giá trị “độc nhất vô song” của vùng Kỳ Bố, nhanh chóng chọn vùng đất trù mật này gây dựng thế lực, xưng Minh Công hào kiệt. Sử cũ còn bàn, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn “thập nhị sứ quân” không chỉ do có chí khí lớn, vận hội lớn mà một yếu tố cực kỳ quan trọng đó là ông sớm chọn dựa Minh Công cùng vùng đất Kỳ Bố Hải Khẩu để nương thân và nhen nhóm xây dựng lực lượng. Một căn cứ địa vững chắc đủ mạnh về quân lương giúp người anh hùng thực hiện ước vọng lớn lao thống nhất giang sơn.

Quang Viện