Thứ 7, 23/11/2024, 10:00[GMT+7]

Thanh Hoá: Xây dựng nông thôn mới vùng biên – những vấn đề đặt ra

Thứ 7, 13/08/2022 | 14:53:40
1,350 lượt xem
Dọc biên giới tỉnh Thanh Hóa có 15 xã của 5 huyện và 1 xã vùng đệm Mường Lý (Mường Lát) đều có điều kiện hạ tầng, kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Tính theo địa giới hành chính 16 xã này, với 15 thôn, bản, tổng diện tích lên đến hơn 1.655 km2, chiếm khoảng 15% diện tích toàn tỉnh, dân số khoảng 70.000 người.

Nhà ở dân cư, hạ tầng giao thông khang trang tại bản Vịn, xã Bát Mọt (Thường Xuân). Ảnh: Lê Đồng

Nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (XDNTM) ở 150 thôn, bản vùng biên đang đặt ra nhiều thách thức, cần thẳng thắn nhìn nhận để từng bước tháo gỡ.

Sự “chậm tiến” cố hữu

Phải thừa nhận rằng, địa hình núi đồi phức tạp, giao thông chưa hoàn thiện là trở ngại cho phát triển kinh tế - xã hội cũng như XDNTM ở những xã biên giới. Tuy nhiên, điều kiện khí hậu thổ nhưỡng đặc thù cũng là thuận lợi cho phát triển các mô hình cây trồng và vật nuôi đặc hữu, phát triển du lịch sinh thái... Tiềm năng quỹ đất rộng lớn ở vùng biên, tài nguyên rừng phong phú còn là gợi ý cho sự đột phá làm giàu ngay trên những vùng đất khó. Nhưng trên thực tế, những mô hình sản xuất hiệu quả ở đây còn quá ít, dẫn đến đời sống người dân đa phần vẫn nghèo nàn, lạc hậu.

Ngoài các nguyên nhân khách quan, cần nhìn nhận nguyên nhân chủ quan là đồng bào các dân tộc sinh sống ở vùng biên đa phần chưa có khát vọng vươn lên, nhiều người còn trông chờ, ỉ lại sự hỗ trợ. Trình độ tiếp cận khoa học - kỹ thuật của người dân, thậm chí ngay cả cán bộ xã, chuyên viên cấp huyện trong triển khai nhiều chương trình, dự án còn hạn chế. Thống kê từ Ban Dân tộc tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2016 – 2020, thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án hỗ trợ, trên địa bàn 11 huyện miền núi đã xây dựng được 206 mô hình; trong đó, có 86 mô hình cây trồng, 82 mô hình vật nuôi, 16 mô hình phát triển dược liệu và 22 mô hình sản phẩm lợi thế, với tổng kinh phí thực hiện 81,056 tỷ đồng. Nhưng đến nay, chỉ còn 34 mô hình cây trồng, 12 mô hình vật nuôi, 3 mô hình cây dược liệu và sản phẩm lợi thế còn cho thu nhập, chỉ chiếm 24% tổng số mô hình được triển khai. 76% số mô hình còn lại đều “chết yểu” hoặc lay lắt. Nhiều mô hình hỗ trợ trong số đó thuộc các xã vùng biên của tỉnh.

Sản xuất chưa phát triển, kinh tế nghèo là nguyên nhân chính khiến nhiệm vụ huy động nguồn lực, XDNTM ở vùng biên của tỉnh đạt hiệu quả thấp. Rà soát mới nhất từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến nay, thu nhập bình quân đầu người các xã vùng biên của tỉnh mới đạt 24,3 triệu đồng/người/năm, chỉ bằng 58% bình quân toàn tỉnh. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình tại 16 xã vùng biên với hơn 50,3%, gấp 7,5 lần bình quân chung toàn tỉnh. Hiện các xã biên giới mới đạt bình quân 3,75 tiêu chí NTM/xã, bằng khoảng 1/4 so với bình quân chung toàn tỉnh. Cùng với đó, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, chương trình phát triển y tế, giáo dục và nhiều tiêu chí NTM còn nhiều bất cập...

Có những “điểm sáng” hy vọng

Nhiều khó khăn thách thức là vậy, nhưng ở nhiều địa phương vùng biên có cán bộ năng động đã có nhiều giải pháp phát huy được tiềm năng, lợi thế sẵn có. Nhiều mô hình nông nghiệp đã cho hiệu quả kinh tế cao, như trồng dược liệu ở các xã Yên Khương (Lang Chánh), Mường Lý (Mường Lát), nhất là mô hình ở bản Chanh, xã Sơn Thủy (Quan Sơn). Các sản phẩm chè Tán Ma của xã Hiền Kiệt (Quan Hóa) và gạo nếp Cay Nọi ở xã Quang Chiểu (Mường Lát) còn được công nhận sản phẩm OCOP cấp tỉnh, hiện đã khẳng định được hiệu quả kinh tế. Mô hình trồng lúa Nhật tại bản Tân Sơn, xã Sơn Điện gắn với đầu ra đang cho hiệu quả kinh tế và ngày càng nhân rộng. Cùng với đó, cơ sở hạ tầng ở nhiều xã vùng biên của tỉnh cũng đang dần được hoàn thiện, hệ thống thiết chế văn hóa theo tiêu chí NTM được quan tâm xây dựng tạo không gian sinh hoạt cộng đồng, thúc đẩy phát triển và lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống bản địa.

Tại xã vùng biên Quang Chiểu (Mường Lát), tuy còn nhiều khó khăn thử thách, nhưng có tới 5 trong tổng số 13 bản đã được công nhận đạt chuẩn NTM. Nhờ XDNTM, đồng bào 5 bản đã biết cải tạo vườn tạp, trồng cây lâu năm theo quy hoạch. Từ nguồn vốn và nguồn xi măng được hỗ trợ, Nhân dân các bản đã tích cực hiến đất, ngày công lao động... để xây dựng đường giao thông, thực hiện có hiệu quả các nguồn hỗ trợ. Xuất khẩu lao động đang trở thành hướng phát triển kinh tế hiệu quả ở địa phương bởi những năm gần đây, xã luôn duy trì trên dưới 200 lao động đi làm việc tại nước ngoài, gửi nguồn ngoại tệ không nhỏ về xây dựng quê hương NTM đã góp phần đưa đời sống vật chất, tinh thần của người dân vùng biên viễn nâng cao so với mặt bằng chung trong vùng.

Phân bố dọc đường biên giới Việt – Lào, cách thị trấn huyện Thường Xuân tới 70 km và khá biệt lập với trung tâm xã, nhưng bản Vịn, xã Bát Mọt lại trở thành điển hình trong XDNTM ở vùng biên. Từ năm 2019, bản Vịn đã đạt chuẩn NTM, trở thành bản đầu tiên của huyện Thường Xuân đạt danh hiệu này. Trở lại bản người Thái giáp huyện Sầm Tớ của nước bạn Lào này, ít ai nghĩ đây là vùng biên từng nhiều khó khăn. Giữa bốn bề núi rừng, những khu nhà sàn san sát bên triền đồi, chạy quanh là hệ thống đường giao thông rộng rãi, được bê tông hóa, trồng hoa. Phát huy lợi thế đất lâm nghiệp, 180 hộ đồng bào dân tộc Thái đều phát triển chăn nuôi gia súc, với tổng đàn trâu, bò hơn 400 con để xây dựng kinh tế hộ vững chắc. NTM đã mang lại “luồng gió mới”, thay đổi tư duy trong phát triển kinh tế của từng gia đình nơi đây. Khi được vận động, sức dân đã biến những vườn hoang thành vườn cây ăn quả, những đàn lợn cỏ, gà đồi được nuôi đại trà hơn, tiềm năng của vùng rừng núi đã được khơi dậy. Mô hình phát triển du lịch cộng đồng đã được huyện Thường Xuân xây dựng tại đây với 10 hộ gia đình được hỗ trợ để sửa chữa nhà sàn, xây dựng nhà vệ sinh khép kín để đón khách, phát triển du lịch cộng đồng.

Khó, nhưng có sự quyết tâm và hướng đi đúng, hoàn toàn có thể XDNTM hiệu quả ở các bản, các xã vùng biên. Nhiệm vụ đưa 100% các xã biên giới đạt chuẩn NTM trước thời điểm năm 2030 khép lại vẫn có tính khả thi, nếu có sự đồng thuận của chính quyền và Nhân dân, sự hỗ trợ của cấp trên.

Để XDNTM vùng biên hiệu quả?

Theo tinh thần Nghị quyết 58-NQ/TW của Bộ Chính trị và các mục tiêu của tỉnh, đến năm 2030, Thanh Hóa phải có 100% số xã đạt chuẩn NTM. Tính đến đầu tháng 8–2022, duy nhất xã Tam Lư (Quan Sơn) đã về đích NTM, 15 xã còn lại đều có số tiêu chí thấp bậc nhất tỉnh, trong đó có tới 14 xã còn dưới 5 tiêu chí. Tại một hội nghị chuyên đề về XDNTM vùng biên mới được UBND tỉnh tổ chức gần đây, đại diện lãnh đạo nhiều huyện biên giới kêu khó với những mục tiêu được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất.

Để có những giải pháp triển khai hiệu quả, cần nhìn thẳng vào những tồn tại, yếu kém từ thực tiễn để khắc phục. Trong đánh giá nguyên nhân chủ quan khiến quá trình XDNTM vùng biên còn yếu kém, đại diện Văn phòng Điều phối Chương trình XDNTM tỉnh cho rằng, nhận thức về mục tiêu, quan điểm XDNTM của một bộ phận cán bộ và người dân còn chưa đầy đủ, chưa xác định được vai trò chủ thể của mình trong quá trình triển khai thực hiện. Khắc phục điều này, chắc chắn phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức, mà nhiệm vụ chủ yếu phải do các huyện đảm trách, có hướng triển khai sáng tạo. Là vùng khó, nên việc thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về XDNTM ở các xã biên giới cũng phải có cơ chế, chính sách đặc thù, cần lồng ghép các chương trình, dự án để tranh thủ các nguồn vốn phát triển hạ tầng và mô hình sản xuất. Ngoài trông chờ vào sự hỗ trợ của Trung ương, cấp tỉnh, các địa phương cũng cần có sự chủ động nhất định, linh hoạt trong huy động nguồn đầu tư cho chương trình.

Việc hỗ trợ, giám sát hay đôn đốc thực hiện, không nên coi là nhiệm vụ của riêng Văn phòng Điều phối Chương trình XDNTM và các huyện. Cần giao cho từng sở, ngành phụ trách từng tiêu chí liên quan, như Sở Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện các nội dung về giảm nghèo, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đôn đốc xây dựng thiết chế văn hóa, xây dựng các phong trào văn hóa, văn nghệ, đời sống tinh thần. Các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương cần sát sao định hướng phát triển các mô hình sản xuất, phát triển thương mại và dịch vụ vùng biên. Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế cùng nhiều sở, ngành, đơn vị khác, tùy theo nhiệm vụ chuyên môn, sẽ chỉ đạo các huyện, các xã thực hiện những tiêu chí liên quan đến ngành mình phụ trách.

Xây dựng các mô hình sản xuất để khơi dậy tiềm năng nội tại của các địa phương vùng khó này là nhiệm vụ quan trọng. Trước mắt, mỗi xã nên lựa chọn một số cây trồng, vật nuôi lợi thế để ưu tiên phát triển liên kết vùng, xây dựng sản phẩm OCOP để sản phẩm có cơ hội vươn xa. Thành lập các HTX kiểu mới để đẩy mạnh liên kết sản xuất, phát triển các nghề truyền thống là một gợi ý cần lưu tâm cho các xã biên giới trong thời gian tới. Quan trọng hơn nữa, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, chính các địa phương phải đúc rút được kinh nghiệm từ thực tiễn để điều chỉnh những giải pháp phù hợp với từng xã, từng thôn và từng thời điểm...

Cần xác định rằng, XDNTM vùng biên sẽ tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện hệ thống hạ tầng, phát huy lợi thế đất đai, khí hậu, khơi dậy tiềm năng phát triển. Các dịch vụ, thương mại ở vùng biên, nhất là tiềm năng các cửa khẩu Khẹo, Tén Tằn và Na Mèo sẽ được khơi dậy, đồng thời tạo diện mạo mới khu vực nông thôn giáp nước bạn Lào, bảo đảm quốc phòng – an ninh trên tuyến biên giới. Theo đó, XDNTM ở 16 xã khó khăn nhất tỉnh này vừa là yêu cầu, vừa là nguyện vọng của đồng bào các dân tộc trong vùng, vừa là sự nghiệp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh của tỉnh và khu vực Bắc Trung bộ.

Theo baothanhhoa.vn