Thứ 6, 15/11/2024, 14:49[GMT+7]

Pháo đài đồng bằng

Thứ 2, 24/12/2018 | 08:11:17
3,276 lượt xem
Năm 1950, với quyết tâm bình định vùng đồng bằng Bắc Bộ, thực hiện kế hoạch đánh chiếm đồng bằng Liên khu III, tả ngạn sông Hồng, giặc Pháp đã thúc quân càn quét, lập một hệ thống đồn bốt dày đặc ven đường 10. Nguyên Xá lọt vào giữa vòng vây của 14 vị trí chiếm cứ của giặc...

Múa rối nước Nguyên Xá.

Dựa trên những câu chuyện có thật, những con người thật, nhà văn Bút Ngữ đã kể chuyện “Nguyên Xá đánh giặc giữ làng” bằng cách khái quát, điển hình hóa, xây dựng thành tác phẩm văn học “Pháo đài đồng bằng”. Báo Thái Bình trân trọng giới thiệu đến bạn đọc tiểu thuyết “Pháo đài đồng bằng” trên các số báo Thái Bình chủ nhật. Hy vọng, qua “Pháo đài đồng bằng”, bạn đọc sẽ hình dung được phần nào hoàn cảnh chiến đấu của Thái Bình với giặc Pháp, sự kiên cường, quả cảm đã góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

1. Năm 1949, mùa thu.

Những trận mưa xối xả đã dứt. Bể nước khổng lồ ở lưng trời đã dốc cạn. Vòm trời như có ai nhấc bổng lên, xanh ngắt. Phía Tây loáng thoáng những chòm mây trắng mỏng, lững lờ theo gió diễu hành trước mặt trời lung linh như mâm thủy ngân.
Từ trụ sở Huyện ủy Tiên Hưng bước ra, Tuyền ngước nhìn trời, buột miệng kêu: “Muộn quá rồi!”. Cuộc họp kéo dài vì phải bàn một việc rất quan trọng: chuẩn bị đánh giặc. Bao nhiêu khía cạnh, ngóc ngách được xem xét tới. Bao nhiêu mắc mứu được lôi ra bàn cách tháo gỡ.
Họp bàn suốt một ngày, anh Dụng, Bí thư Huyện ủy vẫn còn băn khoăn. Anh vỗ vỗ nhẹ vào trán mình, tỏ ra là đầu đã nhức, nói với mọi người câu cuối cùng:
- Việc còn nhiều lắm các đồng chí ạ! Ta mới bàn những việc khẩn cấp phải làm ngay. Làm xong ta lại bàn tiếp.
Tuyền rảo bước, đôi chân quen đi đất, xỏ dép thấy vướng víu. Chả nhẽ họp huyện mà đi chân không, Tuyền mượn của ông chủ tịch xã đôi dép cao su “con hổ”. Ra khỏi phố huyện một quãng, anh tháo dép, xách tay đi cho nhanh. Chiếc túi vải vỗ bạch... bạch... vào sườn theo nhịp anh chạy gằn.
Đến phố Tăng, thấy đám trẻ tíu tít rủ nhau đi xem, Tuyền nhớ ra hôm nay xã mình múa rối. Tuyền nghĩ tới chủ tịch Chinh: “Mình về muộn, thiếu tay nhị, ông ấy hét cho mất thở”.
Ở cổng Bắc làng Nguyễn lúc này người đã vây kín ba mặt chiếc ao to. Đám trẻ thấy thế hò nhau chạy miết, bỏ Tuyền lại sau.
Tuyền vui chân chạy theo lũ trẻ. Đến bờ ao cổng Bắc, Tuyền kiễng chân, nghển đầu nhìn qua vai những người đứng trước. Mấy người quen nghiêng mặt chào Tuyền, nhích ra một chỗ cho Tuyền đứng.
Khắp ba mặt ao, người xem chăm chắm nhìn xuống buồng rối giữa ao. Cái buồng hai tầng mái. Tám góc mái cong cong đa đình. Ba mặt buồng bưng cót, quét vôi trắng xóa. Chiếc mành cửa chính vẽ hai con rồng miệng há, trên cái lưỡng lo le co viên ngọc tròn vo như viên kẹo bi, đầu châu vào mặt nguyệt. Hai chiếc mành tả hữu vẽ hai con hiệc, cổ cao ngỏng, hai chân dài như hai xe điếu, cắm thẳng đuột trên lưng con rùa vàng. Đầu rùa thò ra như quả chuối cơm. Màu hồng điều, màu vàng nghệ và nét vẽ dân gian trang trí buồng rối, gợi lên quang cảnh vừa cung đình vừa dân giã, nửa hài hước nửa nghiêm trang.
Tiếng ồn ào quanh ao bỗng chìm đi. Ba hồi chiêng trống trong buồng rối nổi lên. Rồi mõ, thanh la náo nức.
- Sắp ra trò rồi!
- Chen vừa chứ. Đẩy người ta xuống ao à?
- Để im mà nghe giáo đầu nhá!
Người xem xô nhau đổ dồn mắt xuống vùng ao trong xanh trước buồng rối.
Ba phát pháo nổ báo hiệu chú Tễu ra trò.
Từ trong buồng rối, tiếng một người sang sảng, nửa nói nửa ngâm thơ:
Vận nước thái hòa, Việt Nam độc lập
Hội rối làng ta khánh chúc đồng bào
Tễu tôi nay tuổi nhỏ tài cao
Ra giáo đầu khai trương ngày hội.

Theo nhịp trống mõ rộn ràng, từ trong buồng rối chú Tễu lách mành ra, đôi tay vung vẩy. Chú nhẹ nhàng lướt trên mặt ao, miệng cười toe toét. Người chú bằng đứa bé mới lọt lòng mẹ, đầu tròn xoay như quả bưởi. Người ta sơn chú từ trán tới chân một màu đỏ hỏn, mắt điểm sơn đen, trông xa rất có “thần”. Hai tay chú giơ lên bỏ xuống minh họa cho lời giáo đầu. Đôi chân ngắn ngủn cứng đờ khi tới, khi lui.
Sau mấy đoạn chúc tụng trang nghiêm, Tễu chuyển sang những câu châm biếm truyền thống của mình. Chú chê mấy anh lái buôn thậm thụt chở hàng lậu từ vùng tề ra. Chê những cô gái mặc áo trắng nhởn nhơ khi máy bay bà già thám thính. Chê những người mê tín đốt chó giấy, trâu giấy cho vong nhân rằm tháng bảy... Người xem cười rộ từng chập.
Có mấy người khách lạ qua đường dừng lại xem. Họ bàn tán ngay bên tai Tuyền:
- Cái làng Nguyễn này là tài lắm. Có những ba phường rối cơ đấy.
- Có cả chèo, tuồng nữa. Họ thông bách nghệ.
- Nhưng lời giáo đầu nghe “quê” quá!
Chú Tễu giáo đầu xong, trong buồng rối có tiếng ê a:
Mừng làng Nguyễn ta phong đăng hòa cốc
Phú quý thọ khang phúc lộc đề đa
Hội rối có trò bật pháo, mở cờ
Pháo nổ, cờ bay, đẹp thay ngày hội.

Mọi người chăm chú chờ đợi. Bỗng một loạt pháo nhói nổ đanh, từ mặt nước lăn tăn sóng gợn bật lên sáu lá cờ đỏ sao vàng. Làn gió lướt qua, sáu lá cờ phơi phới bay theo một chiều. Tiếng reo hò vỗ tay vang dậy.
Người khách khen làng Nguyễn “thông bách nghệ” lại xuýt xoa:
- Thánh không chứ lỵ! Cờ mọc dưới nước mà khô nguyên.
Người khách chê lời giáo đầu ra vẻ mình có học thức:
- Trò này thông minh đấy. Rất nghệ thuật. Nhưng lời thuyết minh xoàng lắm. Một thứ vè ông đồ nhà quê.
Trò thứ ba cắt đứt lời bàn tán của mấy người khách. Tám nàng tiên xếp hàng, múa theo điệu chèo “sắp qua cầu”. Rồi đến trò tứ linh. Bốn con long, ly, quy, phượng lượn lờ, múa may theo nhịp trống và thanh la... Đám trẻ con nhảy lên reo khi chú rồng gỗ ngửng cao đầu phun nước vọt cầu vồng. Chú kỳ lân bơi hùng hục bên cạnh chú rùa chậm chạp có cái cổ thò ra rụt vào.
Những người xem chen đẩy nhau khi chiếc pháo chuột sùng sục xé nước chạy ngang mặt ao, rồi rúc rúc vào đám bèo bồng, báo hiệu trò “Cáo bắt vịt”.
Từ buồng rối, anh chăn vịt cầm roi lùa đàn vịt gỗ hơn chục con lềnh bềnh trên mặt ao. Con cáo gỗ màu vàng nấp ở một góc, phốc ra vồ được một chú vịt. Anh chăn vịt vung roi ráo riết đuổi. Cáo bí quá, ngoạm cả con vịt leo thoăn thoắt lên một cây cao để trốn...
Cả người lớn, trẻ con vỗ tay reo hò thích thú.
Tan buổi múa rối, người tỏa ra các ngả, hể hả, thỏa thuê...
Tuyền nán lại chờ ông Chinh.
Chiếc thuyền nan nhỏ đưa những người ở buồng rối vào bờ. Ông Chinh vén mành bước ra thuyền. Mặt ông tươi rói.
Thuyền vào bờ. Tuyền đứng choãi chân, giơ tay cho ông Chinh bám rồi kéo lên. Tuyền khỏe nhưng suýt ngã chúi vì vóc người to đậm của ông. Tuyền kêu lên:
- Bác nặng dễ đến gần tạ!
Ông Chinh cười. Khuôn mặt đầy đặn của ông như nở nang thêm vì buổi múa rối rất giòn trò. Ông hất hàm:
- Về muộn thế?
- Họp dài quá. Tôi về đúng lúc Tễu ra.
Hai người ngồi bệt xuống vạt cỏ xanh bờ ao. Ông Chinh đặt hai cánh tay lên hai đầu gối, ngửa người ra phía sau như vua tuồng ngồi ngai vàng, mắt nhìn ra buồng rối thở dài một hơi thoải mái:
- Kết quả. Buổi múa kết quả. Đông dễ đến ngót nghìn nhỉ!
- Đến. Chật ních ba mặt ao. Khách đi đường, xe kéo, xe đạp ách lại hết.
- Khì... khì... Vậy à?
- Họ khen lắm! Xuýt xoa luôn mồm.
- Ừ, những anh ở xa đến đây chỉ có phục lăn. Ông Chinh nói, lớp da mặt như giãn ra, ông ngửa người về phía sau chút nữa.
- Nhưng cũng có người chê đấy - Tuyền hạ giọng.
- Ai? Ai chê?
Ông Chinh đang ngước mặt nhìn ngọn tre phơ phất ở bờ ao vội quay nghiêng hỏi dồn.
Tuyền đáp:
- Anh ta, có dễ người Hà Nội, Hải Phòng. Đeo kính cận, mắt dày như đít chai. Nói giọng văn hoa lắm.
- Hắn ta chê gì?  
- Chê lời giáo đầu “quê”.
- Hừ! Quê! Văn nghệ nhân dân có vậy thôi! Các anh hẵng làm được thế! Có mà cùn đời...

(còn nữa)

  • Từ khóa